Quốc hội đã chính thức thông qua Luật đầu tư 2014 ngày qua ngày 26/11/2014 tại kỳ họp thứ 7, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài, thay thế cho Luật Đầu tư năm 2005 với nhiều thay đổi quan trọng. Nhiều điểm mới của Luật đầu tư 2014 ra đời đã góp phần quan trọng tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng thu hút đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động đầu tư và đem lại lợi ích cao nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội
Thay đổi quan trọng nhất của Luật đầu tư năm 2014 là việc tạo lập cơ sở pháp lý minh bạch để đảm bảo thực hiện nguyên tắc Hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm thông qua các quy định về ngành nghề cấm đầu tư và đầu tư kinh doanh có điều kiện. Việc tập hợp, rà soát quy định cụ thể Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật đầu tư 2014 theo phương pháp loại trừ (chọn bỏ) đã góp phần đổi mới căn bản nguyên tắc áp dụng pháp luật, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà Luật này không cấm hoặc quy định phải có điều kiện.
Luật đầu tư năm 2014 cũng đã cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính theo hướng minh bạch, đơn giản và bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư với những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng gồm:
Một là: Luật đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước (Điều 36).
Hai là: Luật đã đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài với thời hạn tối đa 15 ngày thay cho 45 ngày như trước đây (Điều 37).
Ba là, cải cách quy trình thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng bãi bỏ yêu cầu cấp giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tách bạch hoạt động đầu tư theo dự án với hoạt động đăng ký kinh doanh. Theo hướng này, sau khi thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh như nhà đầu tư trong nước
Bên cạnh đó, Luật cũng đã làm rõ địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để làm cơ sở áp dụng thống nhất điều kiện và thủ tục đầu tư đối với các doanh nghiệp này theo hướng chỉ các doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 51% hoặc doanh nghiệp có các doanh nghiệp nêu trên nắm giữ trên 51% mới phải áp dụng điều kiện và thủ tục như nhà đầu tư nước ngoài. Những trường hợp còn lại, doanh nghiệp áp dụng điều kiện và thủ tục đầu tư như nhà đầu tư trong nước.
Bốn là, Luật đã cải cách quy trình góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp thực hiện thủ tục thay đổi thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp mà không phải thực hiện thủ tục đầu tư, trừ trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào doanh nghiệp kinh doanh trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài hoặc trường hợp nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trên 51% vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp. Để cải cách quy trình này, Luật cũng đã phân định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán trong hoạt động mua cổ phần, quy định chi tiết các hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài và làm rõ điều kiện phải tuân thủ của nhà đầu tư nước ngoài.
Song song với việc bổ sung các nội dung về đầu tư trong nước, liên quan đến đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài, Luật đã hoàn thiện các quy định về đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật hiện hành, đồng thời luật hoá và hoàn thiện một số quy định tại Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài. Theo đó những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu gồm:
- Bổ sung quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở quy định tương ứng của Nghị định 78/2006/NĐ-CP, trong đó Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Bổ sung quy định nhằm xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý trong việcd quyết định đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
- Bổ sung một số quy định về thủ tục triển khai hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo cơ chế giám sát và quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư
Theo đó, kể từ ngày 01/7/2015 các dự án đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng, Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế cầu treo và các Khu công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh đề nghị trực tiếp làm việc với phòng Quản lý Doanh nghiệp - Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh để được hướng dẫn cụ thể. Đối với trường hợp thành lập doanh nghiệp sẽ do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh cấp.